Nhằm
giới thiệu mô hình canh tác lúa kết hợp với thả bèo hoa dâu vào ruộng lúa. Ngày
14-11-2025, Trung tâm Công nghệ sinh học tỉnh An Giang tổ chức Hội thảo giới thiệu
mô hình canh tác lúa kết hợp với thả bèo hoa dâu vào ruộng lúa thuộc nhiệm vụ
“Xây dựng mô hình canh tác lúa kết hợp với thả bèo hoa dâu vào ruộng lúa tại tỉnh
An Giang” năm 2025.
Tham
dự có ông Nguyễn Hoài Vững – Giám đốc Trung tâm công Nghệ sinh học Tỉnh An
Giang; ông Phạm Danh Tướng – Phó Giám đốc Trung tâm công Nghệ sinh học Tỉnh An
Giang; PGS.TS Phan Phương Loan - Trưởng Khoa Nông nghiệp và Tài nguyên thiên
nhiên, Trường Đại học An Giang; Thạc sĩ. Lê Minh Tuấn - Phó trưởng bộ môn Khoa
học cây trồng, Khoa Nông nghiệp và Tài nguyên thiên nhiên, Trường Đại học An
Giang. Đại diện Phòng Văn hóa - Xã hội, Trung tâm
Dịch vụ tổng hợp và nông dân tiêu biểu trên địa bàn các xã: Vĩnh An, Vĩnh Hanh,
Bình Hòa, Cần Đăng, An Châu.
Mô
hình canh tác lúa kết hợp với thả bèo hoa dâu vào ruộng lúa được Trung tâm công
nghệ sinh học thực hiện trên giống lúa OM18 từ tháng 01/2025 đến hết tháng
11/2025.
Nghiệm
thức 1 (NT1): Canh tác theo quy trình kỹ thuật canh tác lúa trên địa bàn tỉnh
An Giang. Trồng xen bèo hoa dâu sau khi sạ lúa (7-10 ngày sau sạ, khối lượng
500kg/ha) và giảm 50% phân N.
Nghiệm
thức 2 (NT2): Canh tác theo quy trình kỹ thuật canh tác lúa trên địa bàn tỉnh
An Giang. Trồng xen bèo hoa dâu sau khi sạ lúa (7-10 ngày sau sạ, khối lượng
500kg/ha) và giảm 100% phân N.
Nghiệm
thức 3 (NT3): Canh tác theo quy trình kỹ thuật canh tác lúa trên địa bàn tỉnh
An Giang.
Mô
hình sản xuất thử nghiệp áp dụng Quy trình kỹ thuật canh tác lúa trên địa bàn Tỉnh
An Giang ban hành kèm theo Quyết định số 1961/QĐ-UBND ngày 04/08/2022 của UBND
tỉnh ban hành Chương trình canh tác phục vụ Đề án “Xây dựng và phát triển
thương hiệu gạo tỉnh An Giang đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2030”.
Kết
quả khảo nghiệm mô hình cho thấy, về sinh trưởng: ở cả hai vụ Đông Xuân và Hè
Thu cây lúa trong nghiệm thức thả bèo hoa dâu và giảm 50% lượng phân N(NT1)
sinh trưởng ổn định, các chỉ tiêu chiều cao, số chồi và số chồi hữu hiệu tương
đương nghiệm thức đối chứng (bón 100%N -NT3). Việc cắt giảm hoàn toàn phân N
(NT2) làm giảm nhẹ khả năng sinh trưởng, đặc biệt trong vụ Đông Xuân.
Về
năng suất: năng suất thực tế nghiệm thức NT1(giảm 50%N và thả bèo hoa dâu)
không khác biệt có ý nghĩa thống kê so với NT3 trong cả hai vụ. Đặc biệt trong
vụ Hè Thu, năng suất NT1 còn đạt giá trị cao nhất, chứng tỏ khả năng cung cấp đạm
sinh học của bèo hoa dâu có thể bù đắp phần lớn lượng phân đạm hóa học giảm đi.
Ngược lại, nghiệm thức NT2 (không bón N) cho năng suất thấp hơn rõ rệt, cho thấy
phân đạm hóa học vẫn cần thiết đến mức tối thiểu.
Về
hiệu quả kinh tế: mô hình NT1 cho lợi nhuận cao nhất trong cả hai vụ, với mức
tăng lần lượt 911.000 đồng/ha (vụ Đông Xuân) và 1.124.000 đồng/ha (vụ Hè Thu)
so với đối chứng NT3, nhờ giảm chi phí phân bón trong khi năng suất không giảm.
Điều này khẳng định tính khả thi và hiệu qủa của việc kết hợp thả bèo hao dâu
trong canh tác lúa nhằm hướng đến nền nông nghiệp tiết kiệm chi phí, bền vững
và thân thiện với môi trường.
Mô
hình canh tác lúa kết hợp với bèo hoa dâu là phương pháp nông nghiệp bền vững,
sử dụng bèo hoa dâu như một loại phân bón hữu cơ tự nhiên, giúp bổ sung đạm cho
đất và cây lúa. Mô hình này giúp giảm chi phí sử dụng phân bón hóa học, tăng
năng suất và chất lượng lúa, đồng thời cải thiện môi trường nước và giảm phát
thải khí nhà kính, mang giá trị kinh tế và môi trường bền vững cho nông dân.
Trần Ngân – Hoàng
Anh