Trước
điều kiện biến đổi khí hậu, nước biển ngập sâu vào nội đồng và hạn hán xuất hiện…
là thách thức lớn đối với nuôi trồng thủy sản ở nước ta, đòi hỏi nông dân nuôi
cần chủ động thích ứng.
Ngày 12/10/2018, tại câu
lạc bộ hưu trí tỉnh An Giang (05 Nguyễn Du, Phường Mỹ Bình, Thành phố Long
Xuyên, An Giang), Trung tâm Công nghệ Sinh học – Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh
An Giang phối hợp với Trường Đại học Cần Thơ tổ chức hội thảo với sự tham dự của
hơn 30 đại biểu, hội thảo báo cáo kết quả đề tài "Nghiên
cứu xây dựng mô hình nuôi tôm càng xanh thích ứng với biến đổi khí hậu ở tỉnh
An Giang”
nhằm đáp ứng mục tiêu xây dựng hoàn thiện qui trình nuôi tôm trong ruộng
lúa luân canh, xác lập và ứng dụng hiệu quả công nghệ mạng cảm biến để kiểm
soát và giám sát tốt điều kiện môi trường, chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu,
góp phần phát triển bền vững mô hình nuôi.

Nghiên
cứu thực hiện trong 9 ruộng lúa với 3 nghiệm thức (60cm, 90cm và 120cm). Kết quả
nghiên cứu cho thấy, việc áp dụng mạng cảm biến để theo dõi các yếu tố chất lượng
nước như nhiệt độ, độ pH và DO đã chứng tỏ được sự hữu ích và chủ động trong việc
giám sát và đánh giá các điều kiện môi trường của ao nuôi. Thí nghiệm còn ghi
nhận, các yếu tố thủy lý hóa trong các ruộng nuôi biểu hiện khá phù hợp cho sự
sinh trưởng và phát triển của tôm càng xanh (TCX). Khối lượng và tốc độ tăng
trưởng cao nhất của tôm nuôi ở NT 3 cao nhất (63,47 ± 22,77g/con và
0,61g/ngày), kế đến là NT 2 (58,63 ± 21,90g/con và 0,42g/ngày) và thấp nhất ở
NT 1 (55,40 ± 17,62g/con và 0,53g/ngày). Tỷ lệ sống và năng suất tôm nuôi cao
nhất ở NT 3 (31,8 ± 0,8% và 1.590 ± 24 kg/ha) khác biệt có ý nghĩa thống kê
(p<0,05) so với hai nghiệm thức còn lại. Nghiệm thức 3 đạt lợi nhuận cao nhất
(131,1 ± 7,0 triệu đồng/ha) khác biệt không có ý nghĩa (p>0,05) so với nghiệm
thức 2, nhưng khác biệt có ý nghĩa (p<0,05) so với nghiệm thức 1. Tỷ suất lợi
nhuận trung bình ở các nghiệm thức dao động từ 32,5 – 85,0%.
Từ
kết quả của mô hình này, cho thấy người
nuôi tôm ở địa phương hoàn toàn có đủ năng lực tham gia sản xuất mô hình nuôi
tôm càng xanh trong điều kiện môi trường nuôi bị nhiều tác động bất lợi, nhiệt
độ tăng cao và thời gian kéo dài, vấn nạn hạn hán kéo theo nguồn nước cung cấp
cho mô hình nuôi hạn chế....nhưng năng suất, chất lượng sản phẩm mô hình nuôi vẫn
luôn đảm bảo được tính hiệu quả khi vận hành. Bên cạnh đó,
giúp cán bộ cơ sở và nông dân địa phương nắm vững qui trình kỹ thuật công nghệ,
gắn kết các giải pháp bảo quản, sơ chế, chế biến và phát triển thị trường tiêu
thụ sản phẩm tôm càng xanh. Đặc biệt, bằng việc hình thành mô hình ứng dụng mạng
cảm biến sẽ giúp nông dân đo đạc, giám sát và quản lý môi trường vùng nuôi tôm có
khả năng phát hiện sớm, nhận dạng được sự biến động của môi trường ảnh hưởng đến
quá trình hô hấp, hoạt động ăn mồi, trao đổi chất, hấp thu dinh dưỡng và tăng
trưởng của tôm thích ứng với biến đổi khí hậu ở Thoại Sơn. Từ đó, góp phần xây
dựng và phát triển thương hiệu, tạo thị
trường tiêu thụ sản phẩm tôm càng xanh của An Giang…

Ngoài
ra, đề tài còn khuyến khích các hộ nuôi tận dụng diện tích đất bờ ao nuôi tôm,
để trồng các loại rau màu ngắn ngày. Hộ anh Nguyễn văn Châu đạt lợi nhuận từ trồng
màu cao nhất là 54 triệu đồng, cộng với lợi nhuận thu được từ tôm là 123,7 triệu/ha,
tổng lợi nhuận thu được là 177,7 triệu/ha. Mặc dù diện tích không lớn, nhưng với mỗi
hecta nuôi tôm, bà con trồng màu trên bờ ao cũng cho thu nhập vài chục triệu đồng
mỗi vụ góp phần tăng thêm lợi nhuận cho người nuôi.
Tiêu Quốc Sang